Cách phòng ngừa bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu là bệnh truyền nhiễm cấp tính nhóm B, thường gặp ở trẻ nhỏ và người lớn chưa có miễn dịch. Ở nước ta, bệnh bạch hầu vẫn chưa được loại trừ hoàn toàn dù đã có vắc-xin phòng ngừa bệnh bạch hầu.
1. Liên tục xuất hiện các ổ dịch bạch hầu
Trước đây, bệnh bạch hầu lưu hành phổ biến ở hầu hết địa phương. Tuy nhiên, khi vắc-xin phòng ngừa bệnh bạch hầu được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng, căn bệnh này đã được khống chế rõ rệt và chỉ ghi nhận một vài trường hợp nhỏ lẻ mắc bệnh do không tiêm vắc-xin bạch hầu.
Hiện nay, bệnh bạch hầu liên tục xuất hiện các ổ dịch lớn nhỏ, trong đó đã có trường hợp tử vong do bệnh. Vì vậy, vấn đề được quan tâm hiện nay đó là phòng ngừa bệnh bạch hầu đúng cách để khống chế, không cho dịch bệnh bùng phát.
2. Bệnh bạch hầu là bệnh gì?
Bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, có thể xuất hiện ở da, màng niêm mạc như kết mạc mắt, bộ phận sinh dục. Là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc, vì vậy các tổn thương nghiêm trọng của bệnh bạch hầu chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn có tên khoa học là Corynebacterium diphtheriae gây ra.
Vi khuẩn Bạch hầu có thể lây truyền trực tiếp từ người sang người qua đường hô hấp hoặc lây truyền gián tiếp khi tiếp xúc với đồ chơi, vật dụng có dính chất tiết của người nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Vì vi khuẩn bạch hầu có thể xâm nhập qua da tổn thương gây bạch hầu da, sau khoảng 2 tuần nhiễm vi khuẩn, bệnh nhân sẽ có thể tiếp tục lây truyền cho người khác.
3. Đặc tính của vi khuẩn bạch hầu
Vi khuẩn bạch hầu Corynebacterium diphtheriae rất nhạy cảm với các yếu tố lý, hoá bao gồm:
- Dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp, vi khuẩn bạch hầu sẽ bị chết sau vài giờ
- Dưới ánh sáng khuếch tán, vi khuẩn bạch hầu sẽ bị diệt sau vài ngày;
- Ở nhiệt độ 58 độ C, vi khuẩn bạch hầu sống được 10 phút
- Ở môi trường phenol 1% và cồn 60 độ, vi khuẩn có thể chỉ sống được 1 phút.
Năm 1923, các nhà khoa học đã nghiên cứu và tìm ra được một loại vắc-xin có khả năng giải độc tố bạch hầu. Từ đó đến nay, mức độ nghiêm trọng của bệnh dịch bạch hầu đã được thay đổi theo chiều hướng tích cực trên toàn thế giới.
4. Biểu hiện của bệnh
Bệnh bạch hầu có các triệu chứng như: viêm họng, viêm mũi, viêm thanh quản, cổ họng đỏ, nuốt đau, da xanh xao, mệt mỏi, nổi hạch ở dưới hàm làm sưng tấy vùng cổ và khi thăm khám thấy có giả mạc.
Bệnh bạch hầu thanh quản là thể bệnh nặng ở trẻ em. Biểu hiện toàn thân của bệnh là nhiễm độc thần kinh, làm tê liệt thần kinh sọ não, thần kinh cảm giác, thần kinh vận động ngoại biên và/hoặc kèm theo triệu chứng viêm cơ tim. Bệnh bạch hầu có thể được điều trị khỏi bằng huyết thanh hoặc trở nên trầm trọng và gây tử vong trong vòng 6–10 ngày.
5. Tiêm vắc-xin phòng bệnh bạch hầu
Cách phòng ngừa bệnh bạch hầu hiệu quả nhất là tiêm vắc-xin. Vắc-xin phòng bệnh bạch hầu có mặt trong tất cả các loại vắc-xin kết hợp như: vắc-xin 3 trong 1, vắc-xin 4 trong 1, vắc-xin 5 trong 1 hay vắc-xin 6 trong 1 dành cho trẻ từ độ tuổi 6 tuần tuổi cho đến 6 tuổi.
- Vắc-xin 6 trong 1 có thể phòng ngừa 6 bệnh: ho gà, bạch hầu, uốn ván, viêm gan b, bại liệt và bệnh do Hib.
- Vắc-xin 5 trong 1 phòng 5 bệnh: ho gà, bạch hầu, uốn ván, bại liệt và bệnh do Hib
- Vắc-xin thuộc chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia ComBE Five giúp phòng 5 bệnh: ho gà, bạch hầu, uốn ván, viêm màng não mủ/viêm phổi do Hib và viêm gan B.
- Vắc-xin 4 trong 1 giúp phòng ngừa các bệnh: bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt.
- Vắc-xin 3 trong 1 giúp phòng ngừa các bệnh: bạch hầu, ho gà, uốn ván.
Trẻ em từ 2 tháng tuổi đã có thể bắt đầu các mũi tiêm bạch cầu với 4 mũi tiêm cơ bản lúc 2 - 3 - 4 tháng tuổi và tiêm liều nhắc lại là mũi thứ tư cách mũi thứ ba khoảng 1 năm. Tiêm nhắc lại sau 7 năm và tiếp theo cứ 10 năm tiêm nhắc lại 1 lần. Nếu trẻ được tiêm mũi đầu tiên khi trẻ trên 6 tuổi thì tiến hành tiêm 2 mũi cách nhau 30 ngày và nhắc lại bằng mũi thứ 3 sau 6 - 9 tháng sau mũi thứ 2.
Tiêm vắc-xin bạch hầu cho người lớn được thực hiện với 1 mũi vắc-xin tổng hợp theo chu kỳ 10 năm, bắt đầu từ mũi tiêm chủng cuối cùng trong độ tuổi 14 - 16 tuổi.
Nếu trường hợp đối tượng tiêm ngừa không nhớ lần cuối cùng tiêm bạch hầu khi nào thì cần tiến hành tiêm 2 mũi cách nhau 30 ngày và tiêm nhắc lại với mũi thứ 3 sau 6 - 9 tháng sau mũi 2.
6. Biện pháp dự phòng bệnh bạch hầu toàn xã hội
- Tổ chức tiêm bạch hầu đầy đủ theo Chương trình tiêm chủng mở rộng.
- Tuyên truyền giáo dục sức khỏe để cung cấp những thông tin cần thiết về bệnh bạch hầu, đặc biệt nhất là cho các bà mẹ, thầy cô giáo để nhận biết và phát hiện sớm bệnh, cách ly, phòng bệnh bằng cách tiêm bạch hầu đầy đủ.
- Tất cả bệnh nhân mắc chứng viêm họng giả mạc nghi ngờ bạch hầu cần phải được đưa vào viện để cách ly nghiêm ngặt cho đến khi có kết quả xét nghiệm âm tính (-) với vi khuẩn bạch hầu 2 lần. Các mẫu bệnh phẩm phải được lấy cách nhau 24 giờ và lấy không quá 24 giờ sau khi bệnh nhân được điều trị kháng sinh.
- Những người tiếp xúc mật thiết với người bệnh cần phải được xét nghiệm vi khuẩn và theo dõi trong vòng 7 ngày. Tiêm 1 liều kháng sinh Penicillin hoặc uống kháng sinh Erythromycin từ 7 - 10 ngày cho những người bị phơi nhiễm với vi khuẩn bạch hầu.
- Nếu bệnh nhân có xét nghiệm vi khuẩn dương tính (+) thì phải được điều trị kháng sinh và tạm thời nghỉ việc tại các trường học hoặc cơ sở chế biến thực phẩm đến khi có kết quả xét nghiệm vi khuẩn âm tính (-).
- Những người tiếp xúc với người bệnh bạch hầu và đã được gây miễn dịch trước đây vẫn nên tiêm nhắc lại một liều giải độc tố bạch hầu.
- Trong trường hợp không có điều kiện thực hiện các xét nghiệm thì phải cách ly người bệnh sau 14 ngày điều trị bằng kháng sinh.
- Nhà ở, nơi giữ trẻ, lớp học phải thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
- Tăng cường giám sát, phát hiện các trường hợp viêm họng giả mạc tại những nên có ổ dịch cũ.
- Tiến hành ngoáy họng bệnh nhân cũ và những người lân cận (nếu được) để xét nghiệm tìm người lành mang vi khuẩn bạch hầu.
- Cách khoảng 5 năm nên tiến hành đánh giá tiêm chủng một lần và/hoặc thực hiện phản ứng Schick để đánh giá tình trạng miễn dịch bạch hầu.
- Sát trùng, tẩy uế tất cả các đồ vật có liên quan đến bệnh nhân bằng cresyl, cloramin B; bát đũa, dĩa, chăn màn, quần áo của người bệnh... phải được luộc sôi; sách, vở, đồ chơi... phải được phơi nắng.